Sự thể
 Đảng Cộng Sản Việt Nam ngoan cố tiếp tục độc tôn, độc quyền thống trị 
trái với ý nguyền của nhân dân được thể hiện trên hai bình diện pháp lý 
và thực tiễn là vì sao?
 Đó là nội dung bài viết này được lần lượt trình bầy:
- Đảng Cộng Sản Việt Namđã ngoan cố trên bình diện pháp lý cũng như thực tế như thế nào?  
- Vì sao đảng Cộng sản Việt Nam dám ngoan cố như vậy?
- Khi nào đảng Cộng sản Việt Nam mới hết ngoan cố?
I/- ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM ĐÃ NGOAN CỐ TRÊN BÌNH DIỆN PHÁP LÝ CŨNG NHƯ THỰC TẾ RA SAO?
  Nhân dân trong nước cũng như Người Việt ởhải ngoại ai cũng có  thể trả lời dễ dàng câu hỏi này. Vì: 
 1.- Trên bình diện pháp lý: Đảng
 Cộng Sản Việt Nam vẫn duy trì một Hiến pháp và hệ thống luật pháp phản 
dân chủ,như công cụ pháp lý trấn áp nhân dân, bảo vệ chế độ độc tài nhất
 nguyên, độc đảng, trái với ý nguyện của nhân dân (dân chủ, đa nguyên, đa đảng).
  Thật
 vậy, Hiến pháp vốn là văn kiện pháp lý căn bản đã được dùng làm nền 
tảng thiết lập chế độ gọi là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam hiện nay
 là Hiến Pháp năm 1992, với vai trò độc tôn, độc quyền thống trị của 
đảng Cộng Sản Việt Nam được ghi nới điều 4 Hiến Pháp.
 Sự
 quy định ngay trong hiến pháp quyền thống trị độc tôn cho một chính 
đảng duy nhất không những vi phạm nguyên tắc căn bản về lập hiến, mà còn
 phủ định quyền chủ thể Hiến Pháp của nhân dân, tướcđoạt các quyền dân 
chủ, dân sinh, nhân quyền của mọi người dân. Bởi vì, mọi chính đảng phải
 và chỉ được phép đứng ngoài hiến pháp,không được đứng trong và trên 
Hiến pháp, phải hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.Mọi 
chínhđảng đều có cơ hội đồng đều giành chính quyền để thực hiện chủ 
trương, chính sách cai trị của mình trong khuôn khổ qui định của Hiến 
Pháp,pháp luật, thông qua các cuộc vận động tranh cử tự do để được nhân 
dân chọn lựa bằng lá phiếu. Trên nguyên tắc cũng như thực tế, đảng Cộng 
sản Việt Nam đã hành sử như là “Đảng là pháp luật, pháp luật là đảng ta”(!?!).
 Vì
 vậy, chỉ với qui định của điều 4 Hiến pháp với vai trò độc tôn của đảng
 Cộng Sản Việt Nam không thôi, không cần xétđến các điều khoản khác 
trong hiến pháp hiện hành trước cũng sau khi sửa đổi, cũngđã đủ định 
tính cho hiến pháp năm 1992 của chế độ đương quyền tại Việt Nam là một 
Hiến pháp độc tài, phản dân chủ. Vì rằng các điều khoản khác trong Hiến 
pháp này cũng như toàn bộ hệ thống pháp luật dưới Hiến Pháp đều quy về 
một mối: duy trì, bảo vệ quyền thống trị độc tôn của đảng Cộng Sản, bảo 
vệ các ưu quyềnđặc lợi trên hết và trước hết cho một tập đoàn thống trị 
trong khung cảnh một chế độ độc tài toàn trị và là công cụ pháp lý để 
trấn áp nhân dân (qua các điều khoản của bộ Luật Hình Sự vi hiến, vi phạm các quyến dân chủ, dân sinh, nhân quyền…)
 Nayđảng Cộng sản Việt Namđã chỉ thị cho Quốc Hội công cụ của đảng sửa đổi Bản Hiến Pháp năm 1992 của chế độ theo ý đồ của Đảng cầm quyền (tiếp tục duy trì và củng cố chế độ độc tài toàn trị), chứ không theo ý nguyện của toàn dân (dân chủ đa nguyên, đa đảng). Vì vậy Điều 4 Hiến Pháp 1992 vẫn được duy trì, chỉ “sửa” nhưng “không đổi” như với tất cả những điều khoản khác đã chỉ
 sửa ngôn từ theo chiều hướng duy trì bảo vệ quyền cai trị độc tôn, độc 
quyền của một đảng cầm quyền duy nhất là Đảng Cộng Sản Việt Nam,chứ 
không đổi qua cế độ dân chủ đa đảng theođúng ý nguyện của toàn dân. 
 Trên
 bình diện pháp lý, đây rõ ràng là sựngoan cố bám giữ quyền thống trị 
độc tôn, tiếp tục duy trì chế độ độc tài toàn trị của đảng và cho đảng 
Cộng sản Việt Nam.
2.- Trên bình diện thực tế:
 Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tiếp tục dùng hệ thống tòa án, lực lượng cảnh sát, sông an, quân đội như những công cụ (của nền chuyên chính vô sản bịp bợm) để trấn áp mọi sự phản kháng,đấu tranh ôn hòa đòi các quyền dân chủ, nhân sinh và nhân quyền, bất chấp sự phẫn nộ của nhân dân và sự lên án nặng nề của công luận quốc tế.
 Thật
 vậy, người ta thấy đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam cho đến gần 
đây vẫn tiếp tục dùng quân đội công an đàn áp các cuộc khiếu nại kêu oan
 của người dân, ngăn cấm các cuộc biểu tình thể hiện lòng yêu nước, tinh
 thần chống ngoại xâm của nhân dân. Đồng thời,ngang nhiên dùng hệ thống 
Tòa án, pháp luận công cụ pháp lý của nhà cầm quyền xử và kết tội, trừng
 phạt bằng các bản án nặng nề những người dân chỉ vì đã bầy tỏ những bất
 đồng chính kiến, phê phán nhũng sai lầm của chế độ một cách ôn hòa qua 
các phương tiện truyền thông (bao chí, internet, Blogers…). Mặc 
dầu, hành vi của họ chỉ là thực hiện quyền tự do tư tưởng của công dân, 
không thể bị kết tội và bị trừng phạt với những bản án nặng nề như thế. 
 Điển
 hình như các bản án gần đây nhất đối với các Blogers Tạ Phong Tần, 
Nguyễn Văn Hải tức Bloger Điếu Cầy và các bản án nặng nề khác mà Tòa Án 
công cụ của chế độ đã tuyên phạt đối với 14 thanh niên Công giáo và Tin 
lành, chỉ vì các hành vi thể hiện quyền dân chủ của mình. Ngay cả việc 
một nhà báo của một tờ báo nằm trong hệ nhà nước quản lý là Nguyễn Đức 
Kiên, chỉ vì viết một bài nhận định, phê phán những lời phát biểu sai 
lầm của người đứng đầu đảng Cộng Sản Việt Nam là Tổng Bí Thư Nguyễn Phú 
Trọng,thì lập tức bị trừng phạt bằng quyết định cho nghỉ việc theo lệnh 
của “Đảng”.
  Như
 vậy, rõ ràng đây là một chế độ được thiết lập bằng bạo lực, duy trì 
bằng bạo lực do đảng Cộng sản Việt Nam áp đặt và duy trì trong nhiều 
thập niên qua,quốc dân Việt Nam đã phải kiên trì từng bước đấu tranh ôn 
hòa với hy vọng đảng cầm quyền độc tôn, độc tài đảng trị, đến một lúc 
nào đó sẽ phản tỉnh, tự nguyện tự giác, từ bỏ độc tôn, độc quyền và độc 
tài toàn trị, chủ động chuyển đổi hòa bình qua chế độ dân chủ đa 
nguyên,đađảng, ngõ hầu tránh xáo trộn và đổ máu không cần thiết, gây hậu
 quả tai hại nhiều mặt cho đất nước, khi nhân dân bị đẩy đến đường cùng,
 lâm vào tình trạng“tức nước vỡ bờ”(Như thực trạng xẩy ra nới một số nước Trung Cận Đông hiện nay).
 Thế
 nhưng cho đến nay, đảng Cộng sản Việt Nam cầm quyền vẫn ngoan cố tiếp 
tục củng cố và duy trì chế độ độc tài toàn trị trên bình diện pháp lý(Hiến pháp,pháp luật phản dân chủ…) cũng như thực tế (Tòa án, công an, quân đội công cụ trấn áp nhân dân…), hoàn toàn chống lại và trái với ý nguyện của nhân dân,đi ngược với xu thế của thời đại(dân chủ hóa chế độ độc tài các kiểu trên phạm vi toàn cầu.) và chiếu hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam(sau cùng sớm muộn Việt Nam phải có chế độ dân chủ pháp trị đa nguyênđa đảng)
 Thành
 ra, việc Quốc Hội công cụ củađảng Cộng sản Việt Nam đưa dự thảo sửa đối
 Hiến pháp cho dân góp ý cũng chỉ là xảo thuật chính trị quen thuộc 
trong chế độ độc tài toàn trị tại Việt Nam cũng như tại các quốc gia 
xưng danh là chế độ xã hội chủ nghĩa hay cộng sản chủnghĩa.
 Thực
 tế là, đảng cộng sản Việt Nam đã chỉ đạo sâu sát và triệt để Quốc Hội, 
hệ thống chính quyền các cấp, các đoàn thểngoại vi nằm trong cơ chế quản
 lý của Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam, vốn là công cụcủa đảng cầm quyền, 
phải tổ chức lấy ý kiến của dân sao cho “lòng dân phải hợp đúng ý đảng”. Nghĩa là làm sao cho mọi người dân phải quán triệt những quan điểm sửa đổi Hiến pháp của “Đảng và Nhà nước”(là một) mà
 dù muốn hay không cũng phải tánđồng hoàn toàn dự thảo sửa đổi bản Hiến 
Pháp 1992 do Quốc Hội công cụ của chế độ làm ra.Ý đồ này thực tế được 
thể hiện qua những lời phát biểu công khai mớiđây (Tổng bí thư Cộng đảng Nguyễn Phú Trọng…)cũng như chỉ thị ngầm của các nhà lãnh đạo hàng đầu đảng Cộng sản và nhà nước Việt Nam.
 Chính vì vậy, thực tế kết
 quả sau cùng của việc lấy ý kiến của dân trong 3 tháng, không cần đợi 
đến kết thúc vào ngày 31-3-2013 tới đây,mọi ngườiđều đã biết trước là 
bản dự thảo sửa đổi Hiến Pháp 1992 do Quốc Hội của chế độlàm ra sẽ được 
đúc kết gần như nguyên vẹn và trở thành Hiến Pháp của Nước Cộng Hòa Xã 
Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, sau khi được Quốc Hội “sửa” nhưng “không đổi”,được “nhất trí”
 thông qua với đa sốtuyệt đối. Bởi vì, kết quả sau cùng này đã là tiền 
định,do đảng và vì đảng Cộng sản Việt Nam, không hệ tại ở sự góp ý của 
dân chỉ có tính tham khảo, khác với trưng cầu dân ý về một bản Hiến pháp
 trong các nước dân chủ có tính quyết định của người dân thông qua lá 
phiếu của họ.
 Tựu
 chung, việc sửa đổi Hiến Pháp năm 1992 của chế độ đường quyền tại Việt 
Nam như vậy là vẫn theo chiều hướng tiếp tục duy trì và củng cố chế độ 
độc tài toàn trị, phản dân chủ do đảng cộng sản Việt áp đặt trong nhiều 
thập niên qua, chứng tỏ đảng Cộng sản Việt Nam vẫn ngoan cố, chưa
 thức thời,phản tỉnh để làm theo đúng ý nguyện của nhân dân, phù hợp với
 chiều hướng phát triển tất yếu của thực tiễn và lịch sử Việt Nam(cuối cùng sớm muộn phải có dân chủ) và xu thế tất yếu của thời đại (dân chủ và thị trường tự do hóa toàn cầu).
 Vì
 không sửa đổi Hiến Pháp theo đúng ý nguyện của nhân dân nên đảng Cộng 
sản Việt Nam đã một lần nữa đánh mất cơ hội tự giác, chủ động thực hiện 
chuyển hóa chế độ độc tài, độc đảng, toàn trị qua chế độ dân chủ đa 
nguyên đa đảng và là một thách thức đối với toàn thể quốc dân Việt Nam 
trong cũng như ngoài nước. 
 Tất
 nhiên, sự thể này sẽ dẫn đến hậu quảnghiêm trọng, khó lường cho Đất 
nước trong những ngày tháng tới đây, khi nhân dân bị đẩy đến biên độ “Tức nước vỡ bờ”buộc
 lòng phải dứt điểm chế độ độc tài toàn trị bằng mọi phương cách đấu 
tranh, với bất cứ giá nào. Và cũng tất nhiên, số phận của đảng Cộng sản 
Việt Nam sẽphải kết thúc bi thảm như cá nhân các nhà độc tài hay hàng 
ngũ lãnh đảo cácđảng độc quyền có trách nhiệm,trong các chế độ độc tài 
các kiểu đã chọn conđường chống lại nhân dân đến hơi thở cuối cùng.
II/-VÌ SAO ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM VẪN NGOAN CỐ NHƯ VẬY?
 Đảng
 cầm quyền độc tôn hiện nay tại Việt Nam chẳng phải không biết chủ nghĩa
 cộng sản (Mác-Lenin) đã ở vào giờ thứ 25 và làm gì có tư tưởng Hồ Chí 
Minh (chỉ là sựvay mượn, góp nhặt tư tưởng người khác…), nhưng vẫn dùng những thứ này làm nền tảng (giả tạo) cho Hiến pháp của chế độ. Đồng thời, những đảng viên lớn bé của đảng cầm quyền đều biết rõ thực chất cũng như thực tế “làm gì còn có đảng viên và đảng Cộng sản” theođúng lý tưởng và lý luận Marxism-Leninism, nhưng vẫn cố bám lấy danh hiệu “Đảng viên cộng sản”và bảng hiệu “Đảng Cộng Sản”. ; cũng như làm gì có, thực tế cũng chưa bao giờ có chế độXã Hội Chủ Nghĩa ở Việt Nam, nhưng vẫn trương bảng hiệu “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam”theo kiểu gian thương “treo đầu dê bán thịt chó”.
 Câu
 hỏi được đặt ra là vì sao tập đoàn những kẻ cầm quyền tại Việt Nam đến 
giờ phút này mà vẫn còn dám ngoan cố trên cả hai bình diện pháp lý (Hiến pháp, luật pháp…)
 duy trì, củng cố,bảo vệ chế độ độc đảng, độc tài toàn trị chống lại ý 
nguyên của nhân dân và coi thường công luận quốc tế đến như thế?
 Câu trả lời thật đơn giản: 
1.- Đối với nhân dân:
 Vềchủ quan, sau nhiều năm bị áp chế bằng chế độ hộ khẩu,tem phiếu lương thực nắm dạ dầy nhân dân(Thời cả nước tiến lên XHCN, bao cấp), bằng các công cụ trấn áp của “Nền chuyên chính vô sản” (chính quyền, công an, quân đội, tòa án, nhà tù, pháp trường…),
 cho đến bây giờ đảng cầm quyền độc tôn vẫn nghĩ rằng sức mạnh của những
 công cụ ấy dù có suy giảm theo thời gian, nhưng vẫn còn đủ sức trấn áp 
bất cứ sự phản kháng nào từ phía nhân dân, dám nghĩ và làm trái với “Ý Đảng”, dámđi ra ngoài định thức “ý đảng và ý dân phải là một”.
 Vềkhách quan,
 sự ngoan cố của đảng Cộng sản Việt Nam, phần nào chính là thấy có thực 
tế có sự phân tán của các tổ chức chống chế độ trong cũng như ngoài 
nước, các cuộc phản kháng của mọi tầng lớp nhân dân trong nước vẫn chưa 
kết hợp thành lực lượng đối trọng được với đảng và nhà cầm quyền cộng 
sản Việt Nam hiện nay.Vì vậy, đảng Cộng sản Việt Nam vẫn tin rằng còn 
khả năng trấn áp nhân dân, kéo dài thêm tuổi thọ cho chế độ thêm ngày 
nào, tốt ngày ấy (dù họ cũng biết rằng sớm muộn đảng Cộng sản Việt 
Nam cũng phải chấm dứt sự độc tôn, độc quyền thống trị và họ cũng đã 
nghĩ đến, chuẩn bị thực hiện những phương án “hạ cánh an toàn tối ưu” 
cho bản thân, gia đình của toàn đảng…)
2.-Đối với quốc tế:
 Đảng
 cầm quyền độc tôn bao lâu nay vẫn coi thường công luận quốc tế, vì như 
chúng tôi đã nhận định nhiều lần, vì họ biết rõ công luận quốc tế quá 
lắm chỉ là những lời tố cáo,vạch trần,lên án suông mà không có biện pháp
 chế tài hữu hiệu nào ảnh hưởng đến vị thế cầm quyền “Vững như bàn thạch” (!?!) của “Đảng Ta” và làm nguy hại đến quyền lợi cá nhân, gia đình của tập đoàn cầm quyền.
 Thế nhưng đảng cầm quyền độc tôn(Cộng sản Việt Nam) bao lâu nay vẫn phải và chỉ quan tâm đến ý đồ này của cực cường Hoa Kỳ và đồng minh:Khi nào vai trò công cụ chiến lược trong vùng của đảng và chế độ độc tài toàn trị công sản tại Việt Nam không còn thích dụng. Nói
 cách khác, khi nào thì Hoa Kỳ và các đồng minh không còn cần xử dụng 
đảng và chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam làm công cụ nữa, và tỏ
 ra thực tâm giúp cho nhân dân Việt Nam giành lại các quyền dân chủ, 
nhân sinh và nhân quyền.Nghĩa là đảng Cộng sản Việt Nam phải và chỉ quan
 tâm như thế là để có cách ứng xử kịp thời, phương án hạ cánh an toàn 
trước khi quá muộn(như công cụ chiến lược một thời Việt Nam Cộng Hòa 
trước năm 1975,vì thiếu tiên liệu, chuẩn bị kịp thời, nên đã bị tiêu 
vong khi Hoa Kỳ và đông minh thay đổi chiến lược; hay như chính quyền 
của chế độ Afghanistan hiện nay sẽ bị tiêu vong như Việt Nam Cộng Hòa 
nếu thiếu chuẩn bị hay chuẩn bị không kịp sau khi Liên quân Hoa Kỳ và 
đồng minh rút quân).
 Sở
 dĩ, đảng cầm quyền độc tôn và chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại việt
 nam dám coi thường công luận quốc tế, nhưng lại quan tâm đến ý đồ chiến
 lược của Hoa kỳ và đồng minh, là vì họ biết rõ Hoa Kỳ và đồng minh cần 
họ (làm công cụ chiến lược trong vùng) và họ cũng sẵn sàng làm công cụ vì thấy “đôi bên cùng có lợi”.
 Đúng ra, đảng Cộng sản Việt Nam đã có cơ hội làm công cụ chiến lược 
trong vùng sớm hơn, để có thể thủ lợi sớm hơn cho “Đảng ta” và nhân dân 
Việt Nam cũng có cơ may tránhđược những năm dài khổ ải vì bị “Đảng” 
cưỡng ép“xây dựng chủ nghĩa xã hội”,được
 sớm hưởng những năm tháng có tự do, dân chủ phần nào, đất nước không 
suy đồi toàn diện vàđã có điều kiện phát triển sớm hơn, nếu như “Đảng Ta”
 khôn ngoan hơn, nắm bắt lấy cơ hội thuận lợi mà Hoa Kỳ đã chủ động tạo 
ra chỉ một vài năm sau khi chiến tranh Việt Nam Kết Thúc (như tài liệu giải mật sau này cho biết),
 thay vì phải đợi 20 năm sau, cho đến năm 1995 (1975-1995) khi Hoa Kỳ 
quay lại,bãi bỏ cấm vận, thiết lập quan hệ ngoại giao, chuyển đổi mỗi 
quan hệ từ đối phương thù nghịch qua “đối tác” làm ăn.
 Như vậy đến đây có thể tạm kết luận phần này:
 Sởdĩ đảng Cộng sản Việt Nam cho đến hôm nay vẫn ngoan cố bám giữ quyền 
thống trị độc tôn, duy trì chế độ nhất nguyên độc tài toàn trị, nguyên 
nhân sâu xa xuất phát từ mối quan tâm đến diễn biến của ý đồ xử dụng “Đảng ta và chế độ ta làm công cụ chiến lược trong vùng” một thời của “Đế quốc Mỹ vàđồng minh”. 
  Chính
 vì vậy, trên thực tế, đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam đã tỏ ra 
như không sợ dân, không sợ các lực lượng chống chế độ trong và ngoài 
nước, coi thường công luận quốc tế,ngang nhiên củng cố, duy trì quyền 
thống trị độc tôn, chế độ độc tài toàn trị trên bình diện pháp lý cũng 
như thực tế đã có những hành độngđàn áp, bắt bớ giam cầm những người bất
 đồng chính kiến. Thế nhưng đảng và cầm quyền cộng sản Việt Nam lại phải
 quan tâm đến ý đồ xử dụng công cụ chiến lược trong vùng của Hoa Kỳ, để 
ứng xử theo kiểu “Mềm nắn, rắn buông”.Đồng thời cũng lên phương án “hạ cánh an toàn cho toàn Đảng ta”
 khi nắm bắt kịp thời vai trò công cụ của mình chấm dứt vào lúc Hoa Kỳ 
và đồng minh đã thành đạt ý đồ chiến lược trong vùng của mình (Tương tự như Hoa Kỳ và đồng minh đã bỏ rơi VNCH sau khi thành đạt ý đồ chiến lược trong vùng của thời kỳ Chiến Tranh Ý Thức Hệ).
 Ý đồ Hoa Kỳ và đồng minh xửdụng đảng và chế độ độ độc tài toàn trị như 
công cụ chiến lược trong vùng đểthành đạt mục tiêu chiến lược gì, chúng tôi sẽ có dịp trình bầy trong một đề tài khác.
III/- VÂY KHI NÀO ĐẢNG VÀ NHÀ CẦM QUYỀN CỘNG SẢN VIỆT NAM HẾT NGOAN CỐ? 
 Theo
 nhận định của chúng tôi, căn cứ trên những nguyên nhân đưa đến sự ngoan
 cố, thì đảng và nhà cầm quyên cộng sản Việt Nam chỉ hết ngoan cố:
- 
Khi đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam biết rõ Hoa Kỳ và đồng minh 
không còn xử dụng họ như công cụ chiến lược trong vùng.
- Khi Hoa Kỳ và đồng minh thực tâm và quyết tâm giúp cho nhân dân Việt Nam có dân chủ
 Thật vậy, một khi biết rõ Hoa Kỳ và 
đồng minh không còn xử dụng mình như công cụ chiến lược trong vùng, Đảng
 và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam không còn điều kiện mà cả, bắt bí 
Hòa Kỳ và đồng minh khi yếu tố “hổtương đắc lợi” đã không còn, để có thể thực hiện theo ý muốn mà không sợphản ứng quyết liệt, triệt để của Hoa Kỳ và đồng minh. 
 Trong
 khi lại thấy rõ Hoa Kỳ và đồng minh nay đã tỏ ra thực tâm và quyết tâm 
giúp cho nhân dân Việt nam có dân chủ. Sự thể này khác với cách ứng xử 
từ trước đến nay của Hoa Kỳ và đồng minh, bề ngoài luôn ủng hộ các lực 
lượng đấu tranh vì dân chủ cho Việt Nam, nhưng vẫn chưa thực tâm muốn 
Việt Nam có dân chủ. Có thể là vì một chính quyền công cụ trong một thể 
chế độc tài dễ xử dụng hơn trong một chế độ tự do dân chủ, nhất nữa lại 
là một chế độ dân chủ phôi thai mới hình thành thường bất ổn, xáo trộn 
triền miên. Vì vậy Hoa Kỳ và đồng minh dường như đã chỉ hổ trợ các lực 
lượng dân chủ chống chế độ độc tài toàn trị cộng sản Việt Nam nhân danh 
lý tưởng “Tự do, Dân chủ và nhân quyền”như một
 chiêu bài và dùng các hoạt động chống chế độ đấu tranh cho dân chủ như 
công cụ để tạo áp lực với đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam nhằm 
thành đạt một lợi ích chiến thuật nào đó khi cần.
 Thế
 nhưng trong giả định sau này,một khi Hoa Kỳ và đồng minh tỏ ra thực tâm
 và quyết tâm giúp Việt Nam có dân chủ thực sự, sẽ thể hiện qua sự ngầm 
hay công khai trợ giúp tích cực, toàn diện về chính trị, ngoại giao và 
cả quân sự nếu cần cho các lực lượng và quần chúng nhân dân chống chế độ
 trong và ngoài nước . Đồng thời tácđộng, tạo điều kiện thuận lợi cho 
các lực lượng dân tộc, dân chủ chống chế độvà các cuộc nổi dậy của quần 
chúng nhân dân kết hợp thành lực lượng đối trọng thừa đủ làm tiêu vong chế độ độc tài toàn trị cộng sản tại Việt Nam (từng xẩy ra ở nhiều nước có chế độ độc tài chuyển đổi qua chế độ dân chủ với sự trợgiúp ngầm hay công khai như một số nước vùng Trung Cân Đông hiện nay…).
 Đứng
 trước tình huống trên nếu xẩy ra trong tương lai, đảng và nhà cầm quyền
 cộng sản Việt Nam chỉ có thể chọn lựa một trong hai cách ứng xử:
 -
 Một là đảng và nhà cầm quyền Cộng sản Việt Nam tiếp tục ngoan cố duy 
trì bảo vệ đến cùng chế độ độc tài, nhất nguyên, độcđảng như hiện nay, 
chấp nhận thế đối đầu chiến đấu một mất một còn với các lực lượng và 
quần chúng nhân dân chống chế độ độc tài toàn trị vì dân chủ cho Đất 
nước.
 Sựchọn lựa này sẽ đưa đến hậu quả là:
 các lãnh tụ có trách nhiệm của đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt nam 
sẽ phải nhận lãnh hậu quả bi thảm, nhân dân Việt Nam sẽ phải gánh chịu 
nhiều tổn thất nhân mạng, tài sản và đất nước có thể tan 
hoang, như số phận của các nhà độc tài và tập đoàn độc tài sau nhiều năm
 thống trị độc quyền ở các nước vùng TrungĐông và Bắc Phi như Tunisia, 
Ai Cập, Lybia và Syria hiện nay.
 -
 Hai là tự nguyện, tự giác, chủ động thực hiện kịp thời tiến trình 
chuyển đổi hòa bình chế độ “độc tài, nhất nguyên, độcđảng” qua chế độ “Dân chủ, đa nguyên đa đảng”.
 Sự chọn lựa này như Liên Xô và các nước xã
 hội chủ nghĩa Đông Âu đã làm vào cuối thập niên 80 và đầu thập niên 90,
 hay theo chiều hướng chế độ độc tài quân phiệt Miến Điện đã đang làm, 
và đã khởi sự làm trong thời gian gần đây (từ cuối năm 2011), đã có dấu hiệu và hiệu quả thực tiễn bước đầu, như mọi người theo dõi tình hình đã thấy.
 Nếu
 làm theo cách này, sẽ là cách tối ưu có lợi nhất cho nhân dân, Đất nước
 và cho chính đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay. Có lợi 
cho chính các cán bộ đảng viên cộng sản, vì chế độ độc tài toàn trị dù 
bị tiêu vong, nhưng Đảng cộng sản Việt Nam hiện nay (nếu không đổi tên)
 vẫn có cơ hội tồn tại cùng với các chính đảng khác sinh hoạt bình đẳng,
 hợp pháp để giành quyền lãnhđạo đất nước trong một chế độ dân chủ, đa 
nguyên, đa đảng.Và đảng Cộng sản Việt Nam vẫn có nhiều yếu tố thuận lợi 
hơn các chính đảng khác (nhờ thế lực sẵn có sau nhiều năm nắm quyền độc tôn…)
 để nắm quyền trở lại trong khung cảnh chế độ dân chủ đa đảng này, nếu 
được đa số nhân dân tín nhiệm trong các cuộc tranh cử và bầu cử tự do. 
Đồng thời, sẽ tránh được những hậu quả tai hại, bi thảm cho nhân dân(đổ máu…), đất nước (tan hoang…)và cho chính các cán bộ đảng viên cộng sản Việt Nam (như nhân dân, đất nước và các nhà độc tài các nước vùng Trung Đông và Bắc phi đã và đang phải gánh chịu…)
  Để kết thúc bài viết này, câu hỏi được đặt ra là:
 những người lãnh đạo có trách nhiệm củađảng và nhà cầm quyền cộng sản 
Việt Nam hiện nay nên chọn cách nào trong hai cách trên, chọn ngay bây 
giờ hay đợi đến khi Hoa Kỳ và đồng minh không còn xửdụng mình như công 
cụ chiến lược một thời mới chọn lựa?
 Câu trả lời xin dành cho những người lãnhđạo có trách niệm của đảng và nhà cầm quyền cộng sản Việt Nam hiện nay.
Thiện Ý
Houston, ngày 14 tháng 3 năm 2013


 Euro Exchange Rate
   Euro Exchange Rate


0 comments:
Post a Comment