VÀO
TPP HAY KHÔNG,
VN LÀ TỈNH TIÊU THỤ &
XUẤT
CẢNG HÀNG CHO TRUNG QUỐC
CHÚ THÍCH:
Chính đảng CSVN, với CÔNG HÀM bán
Đất & Biển từ Hồ Chí Minh/ Phạm Văn Đồng và với lệ thuộc Kinh tế của đảng
CSVN thời nay vào Trung quốc cho phép bá quyền Hán tộc đem quân vào xâm chiếm
Việt Nam mà Quốc tế khó lòng giải quyết.
Thực vậy, về mặt xâm lăng Kinh tế,
nhà nước CSVN, trong thế tụt dốc hiện nay và với tham vọng cố thủ lấy quyền
hành dưới sự bảo trợ của Trung quốc, đã liều mình nhận nợ và dành 90% những Dự
án cho Trung quốc, đồng thời nhập siêu 100% từ Trung quốc.Trong Bài dưới đây,
Ts. LÊ ĐĂNG DOANH đã khẳng định:
“-“Thực tế là nhập siêu của Trung Quốc chiếm
trên 100% nhập
Lễ ký kết Hợp đồng sau khi Công ty
China Huadian Engineering (CHEC) Trung Quốc trúng thầu EPC Dự án Nhà máy nhiệt
điện Kiên Lương, tỉnh Kiên Giang, hôm 30-06-2010.
Nhập siêu của cả nước và chính phủ
phải dùng số tiền xuất siêu ở các nơi khác để bù vào số nhập siêu của Trung
Quốc. Vì vậy giải quyết nhập siêu từ thị trường Trung Quốc là một vấn đề sinh
tử của nền kinh tế Việt Nam, nếu không làm được việc đó thì không chỉ phụ thuộc
vào thương mại mà trong tương lai gần đây Trung Quốc sẽ yêu cầu thanh toán bằng
đồng nhân dân tệ và Việt nam không thể dùng đồng đô la Mỹ kiếm được ở thị
trường khác để trang trải và sẽ phải vay nợ đồng nhân dân tệ và lúc đó sẽ bị
phụ thuộc vào tài chính và nguy cơ sẽ còn tăng lên rất nhiều.
Khi mà hoàn toàn nhập siêu từ Trung
quốc và phải thanh toán bằng đồng Nhân Dân tệ, thì Việt Nam trở thành như một
Tỉnh tiêu tiền Trung quốc.
Đồng thới, từ cảnh nhận nợ ấy, Việt Nam còn phải chịu việc Trung quốc xuất cảng nhân công của
họ sang Việt Nam để lập những khu tự trị Trung quốc trên lãnh thổ mình
Cách đây 3 năm, đúng ngày
04.02.2009, dưới đầu đề TRÁNH BIỆN MINH QUỐC TẾ CỦA TRUNG QUỐC KHI ĐEM QUÂN VÀO
CHIẾM VIỆT NAM, chúng tôi đã viết về việc Trung quốc đem quân vào chiếm Việt
Nam như sau:
“Điều chúng ta ngại sợ hơn cả là
chính quân đội và xe tăng Trung quốc tràn vào lãnh thổ Việt Nam để giết người Việt Nam. Trong sự liên đới Đông Nam Á và Thế giới hiện nay,
việc Trung quốc tự nhiên cho quân và xe tăng đổ bộ xâm chiếm lãnh thổ Việt
không phải là điều dễ làm vì quốc tế kết án. Trung quốc phải tìm ra những cái
cớ để biện minh trước những nước trong vùng và trước Thế giới về việc họ xua
quân và xe tăng vào Việt Nam.
Việt Nam chắc chắn không mang quân đội và vũ khí sang tấn công
lãnh thổ Trung quốc để Trung quốc lấy cớ tràn quân vào Việt Nam. Những cái cớ mà Trung quốc sẽ lấy ra, đó là để đòi
NỢ Việt Nam, để bảo vệ sinh mạng NGƯỜI Trung quốc đang sống ở Việt Nam và để
bảo tòan TÀI SẢN của Trung quốc đặt để ở lãnh thổ Việt Nam.
1)
Đòi NỢ Việt Nam
Trung quốc cho Hoa kỳ vay nợ. Họ trở
thành chủ nợ, nhưng đối với con nợ Hoa kỳ, chính chủ nợ Trung quốc lại ngại sợ
bởi vì Hoa kỳ có một lực lượng quân đội mạnh có thể vận chuyển nhanh chóng khắp
Thế giới. Trung quốc chưa bao giờ viễn chinh và có thể bị tiêu diệt dễ dàng nếu
muốn tấn công Hoa kỳ để đòi nợ.
Trường hợp con nợ Việt Nam thì khác. Việt Nam ở gần kề và bị bao vây mọi phía
bởi Trung quốc: phía Đông, Tầu đã giữ Biển Đông; phía Tây, Tầu tràn qua Lào và
Cao Mên dễ dàng; phía Bắc, Tầu đứng cạnh biên giới sẵn sàng tràn xuống như họ
đã làm trong Lịch sử. Trong tình trạng Kinh tế hiện nay, Trung quốc dư vốn cho
Việt Nam vay và khi cho Việt Nam vay thì họ không sợ mất vốn. Nhà Nước Việt Nam thiếu hụt ngân qũy và nhờ Trung quốc trợ giúp Tài chánh.
Ngân Hàng dành riêng cho người Tầu đã họat động từ 4 năm nay tại Việt Nam. Phần lớn những Dự án ở Việt Nam hiện nay là do vốn Tầu cho vay và dân chúng Việt Nam phải trả góp. Trả nợ không xong, thì Tầu tràn vào đòi
nợ.
2)
Bảo vệ sinh mạng NGƯỜI TẦU sinh sống tại Việt Nam
Trung quốc cho vay nợ để thực hiện
Dự án. Mỗi Dự án là mỗi xuất cảng công nhân Trung quốc sang Việt Nam. Những công
nhân này không phải chỉ lấy vợ chồng tại Việt Nam mà ở lại, mà chính họ tìm mọi
cách ở lại Việt Việt Nam để lập nghiệp. Những công nhân này sẽ mang gia đình
họ từ Trung quốc sang sinh sống tại Việt Nam. Họ sẽ thiết lập những làng, những khu thương mại,
những khu kỹ nghệ riêng cho họ. Khi người Tầu lập những China Towns khắp Thế
giới, thì việc tiến lên những khu riêng của họ tại Việt Nam, với thái độ sợ sệt
của CSVN lúc này, là việc rất dễ dàng và mau chóng. Khi đã sinh sống thành
làng, thành khu thương mại, kỹ nghệ rồi, thì khi có cuộc nổi dậy tại Việt Nam, Trung quốc dễ dàng nại ra lý do bảo vệ sinh mạng
người của họ để cho quân đội vào bảo vệ.
3)
Bảo tòan TÀI SẢN Trung quốc đặt ở Việt Nam
Chúng tôi đã viết bài về chương
trình tư nhân hóa hay Trung quốc hóa những Công ty quốc doanh Việt Nam. Người Trung quốc trực tiếp hay qua trung gian những
người Tầu sống tại Việt Nam mua đa số cổ phần trong những Công ty này để nắm
trọn Sản xuất cũng như Thương mại tại Việt Nam. Việc Trung quốc hóa này nhắm
chính yếu vào Thương mại. Thực vậy, khi mà những cơ sở nhập cảng nằm trong tay
Trung quốc, thì việc nhập cảng hàng từ Trung quốc để phân phối cho 85 triệu
người Việt trở thành tự động. Khi có nổi dậy, Trung quốc có thể lấy lý do bảo
tòan tài sản của họ mà cho quân tràn vào.
Tóm lại, Trung quốc không tự dưng
tràn quân vào Việt Nam để bị Thế giới kết án. Nhưng họ sẽ nêu ra những lý do
bảo vệ quyền lợi Kinh tế của họ mà cho quân vào Việt Nam.
Nguyễn
Phúc Liên
Từ rừng rú ra, CSVN hồ hởi vào WTO, mơ tưởng
hốt bạc thiên hạ hay chính là mở rộng cửa để hàng ngoại, nhất là từ TQ, vào
diệt Kinh tế mình? Bên cạnh gian manh Kinh tế Chệt mà Việt Cộng quỳ gối bái lậy
việc bao che cho quyền lực, CSVN dâng Đất Nước như một Tỉnh để tiêu thụ hàng TQ
và tái xuất hàng ứ đọng cho quan thầy !
Việt Nam phải đối diện với hai
cuộc Xâm lăng đến từ Trung quốc: (i) Xâm lăng Đất và Biển; (ii) Xâm lăng Kinh
tế.
Trong những tháng gần đây, vấn đề Biển Đông,
việc tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa/ Trường Sa làm cho quần chúng lưu ý đặc biệt
và có thể vì đó mà chúng ta quên một phần về cuộc Xâm lăng Kinh tế cực kỳ nguy
hiểm vì nó biến Việt Nam thành một Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng cho hàng hóa
Trung quốc đang ứ đọng.
Vấn đề Biển Đông có thể chuyển mình qua những
đàm phán đa phương và như vậy Việt Nam có thể đỡ một phần gánh nặng vì có cả
khối ASEAN, Nhật, Nam Hàn, Hoa kỳ và Ấn độ hỗ trợ, thì việc Xâm lăng Kinh tế từ
Trung quốc, Việt Nam phải chịu trận một mình. Quá lệ thuộc quyền hành vào Trung
quốc, CSVN đã theo lệnh của quan thầy để chấp nhận đàm phán song phương, nghĩa
là sang tận Bắc kinh để nhận chỉ thị, ngay cả chỉ thị về Việt Nam đàn áp tất cả những ai vì lòng
yêu nước mà lên tiếng phản đối quan thầy Trung quốc.
Khi mà CSVN còn cố níu lấy quyền hành do Trung
quốc bảo trợ, thì cuộc Xâm lăng Kinh tế, hiện nay đã lan tràn, sẽ tiến tới rất
nhanh diệt hẳn Kinh tế Việt Nam đang èo ọt tụt dốc.
Viết bài này về Xâm lăng Kinh tế Trung quốc,
chúng tôi muốn nói đến con đường mà CSVN đang đưa Đất Nước đến tình trạng một
Tỉnh tiêu thụ và tái xuất cảng cho Trung quốc.
2006:Việt Nam vào WTO/OMC
với nguy hiểm bị xâm lăng Kinh tế
Trước khi Việt Nam vào WTO, đài Phát Thanh RFI
(Radio France Internationale) đã phỏng vấn chúng tôi ngày 04.05.2005 nhân Liên Âu và
Hoa ky đưa ra những biện pháp ngăn chặn xâm lăng của Hàng May Dệt Trung quốc
làm thiệt hại cho ngành nghiệp này tại Liên Âu và Hoa kỳ.
Thực vậy, Trung quốc vào WTO từ năm 2001, tuy
nhiên Hoa kỳ và Liên Au vốn giữ vấn đề Quotas đối với Trung Cộng. Nhưng sau khi
vấn đề Quotas được bỏ đi kể từ năm 2005, Trung Cộng đã xuất cảng ào ạt hàng May
Dệt sang Hoa kỳ và Liên Au. Vì quyền lợi của mình, Hoa kỳ và Liên Au đã phản
ứng để ngăn chặn Tsumani hàng May Dệt này ngay trong khuôn khổ của Tự do Mậu
dịch WTO/OMC. Đây là một trong những tỉ dụ mà người ta sẵn sàng vì quyền lợi
Quốc gia mà bỏ những điều đã ký kết. Từ tháng tư 2005, Hoa kỳ và Liên Au phải lấy những quyết định
phản ứng mạnh để ngăn chặn Tsumani này từ Trung Cộng.
Ngành May Dệt tại Hoa kỳ và Liên Âu đã có
truyền thống lâu đời và đã trưởng thành, nhưng trước Tsumani xâm lăng của Trung
quốc, Hoa kỳ và Liên Âu phải đưa ra những Biện pháp giá biểu quan thuế cũng như
không giá biểu để chống lại (Mesures Tarifaire et non-Tarifaire). Đây là cái
quyền tự vệ khi mà mình cảm thấy bị thiệt hại. Tự do Mậu dịch là một lý tưởng
nếu hai phía cùng có sức mạnh tương đương. Việc Bảo vệ Mậu dịch được phép, nhất
là cho những ngành nghiệp mới phát sinh và trên đà phát triển (Protectionnisme
des Industries naissantes).
Việt Nam mới chập chững mở cửa
để bắt đầu hội nhập với Mậu dịch Thế giới. Thất bại về Kinh tế tập quyền chỉ
huy (Economie centralisée et dirigiste), Việt Nam gặp đói nghèo, đành phải mở
cửa và chấp nhận Kinh tế gọi là “Tự do Thị trường định hướng XHCH”, một thứ
Kinh tế Tự do Thị trường tréo cẳng ngỗng, nghĩa là nhà nước độc tài vẫn nắm
“chụ đạo“ Kinh tế. Hệ thống sản xuất và Thương mại vẫn nằm trong tay những Tập
đoàn quốc doanh do người của đảng nắm giữ. Sản xuất còn yếu kém, nhưng đảng
CSVN vẫn mơ mộng rằng vào WTO là đi hốt bạc ngay tức khắc.
Chính việc để tự do mậu dịch này trong tình
trạng mình còn yếu sức sản xuất và cạnh tranh đã làm Việt Nam thành mồi ngon cho
những hàng hóa nước ngoài tràn vào xâm chiếm.
Vì còn là đầy tớ của Trung cộng nữa, nên hàng hóa, thương nhân và công
nhân Trung quốc vào Việt Nam như chỗ không người để cạnh tranh.
2009: Từ huênh hoang Công nghệ hóa
đến chấp nhận Phân phối hàng Trung quốc
Chúng tôi đã viết bài về thảm cảnh này ngày
02.07.2009, nghĩa là 3 năm sau khi Việt Nam vào WTO.
Nhà Nước CSVN vẫn huênh hoang chương trình vĩ mô Công Nghệ
hóa Kinh tế Việt Nam. Dưới chiêu bài này, những Dự án, những Khu chế xuất có quyền ưu tiên
tịch thu đất trồng cấy khiến Nông nghiệp thiệt hại. Nhà Nước hy sinh Nông nghiệp, một căn bản sẵn
có và truyền thống của đại đa số Dân Việt sinh sống.
Vì
quá lệ thuộc vào Trung quốc để bảo đảm quyền lực Chính trị, đảng CSVN đang biến
cái gọi là Công nghệ hóa thành thảm cảnh tổ chức phân phối cho hàng hóa Trung
quốc.
Thực
vậy, CSVN để tự do nhập nội hàng hóa Trung quốc. Tại Thị trường hàng hóa, hai
yêu tố cạnh tranh chủ yếu là GIÁ CẢ và PHẨM CHẤT (Prix et Qualité) của món
hàng.
Giá cả hàng Trung quốc rẻ hơn
Giá bán tùy thuộc vào giá thành sản xuất. Hệ
thống sản xuất công/ kỹ nghệ ngày nay là hệ thống những linh kiện cấu thành món
hàng cuối cùng. Đó là hệ thống liên đới sản xuất những bộ phận cấu thành
(système de sous-traitance des pìeces détachées). Món hàng cuối củng sẵn sàng
cho tiêu thụ chỉ là việc ráp nối (assemblage) những bộ phận. Không một Công ty
nào sản xuất tòan bộ những bộ phận cấu thành món hàng cuối cùng. Đây không phải
là việc bất lực về khả năng, mà là vì giá thành của món hàng cuối cùng sẽ tăng
lên gấp bội.
Khi
món hàng cuối củng được chia ra thành những bộ phân riêng rẽ, thì những bộ phận
này sẽ do những xí nghiệp chuyên môn sản xuất trong hệ thống liên đới. Vì chỉ
sản xuất những bộ phận chuyên môn, nên những Xí nghiệp này có thể tăng lượng
sản xuất để triệt tiêu phí tổn trang bị máy móc sản xuất (Installation des
équipements).
Yếu
tố khách quan làm cho những món hàng Trung quốc rẻ hơn hàng Việt Nam, đó là
Trung quốc có thể tăng rất lớn lượng sản xuất những linh kiện. Trung quốc sản
xuất từ A tới Z của một mặt hàng là như vậy.
Cùng
sản xuất một mặt hàng như Trung quốc, nhưng Việt Nam phải mua lại từ Trung quốc
những bộ phận cấu thành mặt hàng cuối cùng. Vì vậy mà mặt hàng Việt Nam bán ở Thị trường
không thể nào rẻ hơn mặt hàng của Trung quốc.
Cũng
chính vì điểm này, mà những Công ty Tây phương đặt mua linh kiện tại Trung
quốc.
Phẩm chất của món hàng
Hệ thống sản xuất liên đới những linh kiện
(système de sous-traitance des pìeces détachées) không phải chỉ làm giảm giá
thành sản xuất, mà còn cho phép những Công ty chuyên nghiệp có thời giờ và cô
đọng khả năng vào việc kiện tòan phẩm chất của từng bộ phận, từng linh kiện.
Thực vậy, những Công ty chuyên nghiệp này dành trọn thời giờ cho Nhóm Nghiên cứu
(Equipe de recherche) chuyên tâm vào một linh kiện, một bộ phận. Đây là việc
làm tăng phẩm chất chuyên môn cho sản phẩm. Vấn đề cạnh tranh trên Thị trường
không phải chỉ nguyên giá cả mà trở thành cạnh tranh về phẩm chất chuyên môn,
kiện tòan của từng linh kiện cấu thành. Nhất nghệ tinh, nhất thân vinh được áp
dụng triệt để ở hệ thống sản xuất linh kiện công nghệ và kỹ nghệ hiện nay.
Trung
quốc có điều kiện phát triển hệ thống liên đới sản xuất từ A tới Z và tất nhiên
họ có điều kiện kiện tòan phẩm chất mặt hàng cuối cùng hơn Việt Nam
Chúng tôi rất đau lòng đọc tin sau đây từ Quốc nội:
“(TuanVietNam)- Êm như mưa dầm, ồ ạt như
lũ, hàng TQ đổ bộ vào VN, “quét” sạch hàng nội, moi túi người tiêu dùng. Con số
nhập siêu hơn 11 tỷ USD năm qua đủ cho thấy các DN ta đang “thua trắng bụng”.
Để không bị làn sóng này dìm chết, không một ai – từ Chính phủ tới DN và người
tiêu dùng – có thể đứng ngoài cuộc.“
Cán
cân Thương Mại giữa Trung quốc và Việt Nam cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế tại
Việt Nam mỗi ngày một tăng mạnh: “10 năm
qua, kim ngạch xuất khẩu của Trung Quốc sang Việt Nam đã tăng 23,25 lần, đạt
tới con số 15.652 tỷ USD vào năm ngoái. Cùng trong thời gian đó, kim ngạch xuất
khẩu của ta theo chiều ngược lại tăng vỏn vẹn 6,08 lần, chỉ đạt 4.536 tỷ USD năm
2008.“
Ong
ĐÀO XUÂN ANH, chủ một Công ty sản xuất, đã kết luận:”Chi phí nhập khẩu (tính cả mua hàng lẫn vận chuyển) rẻ hơn là tự sản
xuất, quy trình làm việc đơn giản và ít phải suy nghĩ hơn.“
Từ
là Doanh nhân sản xuất công nghệ, Ong trở thành một Thương gia phân phối hàng
Trung quốc !
2009:Truyền Thông & Doanh nhân VN
tuyên chiến với hàng TQ
Truyền thông Việt Nam và Doanh nhân đã
Tuyên chiến với cuộc tấn công của hàng ngoại chất lượng thấp và yêu cầu Nhà
nước tham gia cuộc chiến (18/06/2009 09:37 (GMT + 7). Tiên khởi cho việc Tuyên chiến này là Vietnamnet với Thảo
Luận “TuanVietNam “. Chúng tôi xin đăng lại nội dung Thảo Luận.
(TuanVietNam)- "Dù tất cả đã có nhưng lực lượng hải quan, lực lượng kiểm tra thị
trường, nói chính xác hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến ngăn chặn
hàng giá rẻ, chất lượng thấp vào thị trường Việt Nam cũng sẽ bị thủng..."-
TS. Nguyễn Minh Phong nói.
Chất lượng công quyền
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Không rõ có chính xác hay không, nhưng tôi
cảm giác Nhà nước mình như một ông chủ đội bóng, bỏ tiền ra mua đội bóng đó,
đầu tư cho đội bóng nhưng lại giữ chân huấn luyện viên. Theo tôi hiểu, huấn
luyện viên là một chuyên môn khác, đẳng cấp khác, còn việc của người quản lý
đương nhiên là một công việc khác hoàn toàn.
TS.
Nguyễn Minh Phong: Xin được quay trở lại
câu chuyện còn đang dở, chúng ta vừa nói đến hàng may mặc Trung Quốc, nhưng giờ
chúng ta phải nói đến tất cả các hàng hóa có xuất xứ từ Trung Quốc, bởi có
những thứ kém chất lượng, độc hại mà cơ quan kiểm định đã công bố, và thế giới
cũng đều biết, đang có mặt nhan nhản ở thị trường Việt Nam.
Nhà
báo Nguyễn Quang Thiều: Rõ ràng, chúng ta
có những phòng tuyến chặn cửa như hải quan, các cơ quan kiểm thị trường, kiểm
dịch, công an, quân đội và cả thuế vụ nữa… nhưng tại sao hàng ngoại chất lượng
thấp lưu hành trên thị trường tiêu dùng vẫn không hề giảm đi, thậm chí có phần
ồ ạt tiến vào vào thị trường Việt Nam. Liệu có hay không phòng tuyến nào bị
hổng, hay tất cả đều bị hổng, thưa TS. Nguyễn Minh Phong?
TS. Nguyễn Minh Phong: Tôi cho rằng có 3 điểm cần lưu ý. Thứ nhất, chúng ta phải học tập Nhật
và Trung Quốc, nghĩa là hàng tốt của Việt Nam phải bán cho người Việt Nam, chứ
không phải hàng tốt thì mang hết ra nước ngoài, còn hàng bán ở Việt Nam toàn
hàng xấu, tự nhiên người tiêu dùng trong nước bị ấn tượng hàng Việt Nam là hàng
xấu.
Thứ hai, những chế tài và những quy định
pháp lý, đặc biệt là những chế tài quy định liên quan đến hàng rào kỹ thuật cần
phải được tăng cường hơn. Lâu nay, chúng ta sử dụng nặng công cụ thuế, còn công
cụ hàng rào kỹ thuật lại xem rất nhẹ, thậm chí còn không biết làm như thế nào
vì tiêu chuẩn chưa định hình, cái đã định hình thường thấp hơn rất nhiều so với
thế giới. Do vậy, những hàng rào kỹ thuật, những tiêu chuẩn hoá về kỹ thuật cần
sớm được quốc tế hoá, được xác lập và triển khai trên thực tế một cách hiệu
quả.
Thứ ba, rất quan trọng.
Dù tất cả những tiêu chuẩn đó đã có nhưng nếu lực lượng hải quan, lực lượng
kiểm tra, hay nói gọn hơn là con người mà bị thủng thì phòng tuyến đương nhiên
sẽ bị thủng... Cái thủng của con người là cái thủng lớn nhất. Chúng ta đã có
rất nhiều bài học như vụ án hàng lậu Tân Thanh. Một khi quan chức liên tỉnh bắt
tay dằng dây sẽ vô hiệu hóa tất cả những hàng rào kĩ thuật khác.
Bà
Phạm Chi Lan: Về lỗ thủng chất lượng đội
ngũ tôi đồng ý với anh Phong. Nhưng chúng ta nhìn nó rộng ra hơn một chút là cơ chế có thể tạo nên những con người như vậy, muốn có
đội ngũ công chức thật tốt như chúng ta mong muốn thì phải có hệ thống cơ chế trong đó bao gồm cả thể chế cả chính sách, cả
tiêu chuẩn cán bộ như thế nào, cách để chọn vào ra như thế nào, tất cả đều phải
nghiêm chứ đừng chỉ đứng hô hào chung chung.
Bản thân Nhà nước phải
rất nghiêm với chính mình về hàng rào kĩ thuật này, đã đặt ra phải xử lí, chỗ
nào chưa có phải làm. Không phải bây giờ khi cả xã hội kêu lên là hàng chất
lượng thấp thì bộ nọ, bộ kia lại chưa có căn cứ, chưa có tiêu chuẩn để kết luận
đó là xấu, ngăn chặn không cho họ vào hoặc phản ứng lại với họ. Đó là cách trả
lời vô cùng thiếu trách nhiệm. Lỗ thủng về trách nhiệm ở đây cũng là rất lớn,
chứ không phải chỉ là vấn đề về tư cách con người hay về tham nhũng không thôi.
Chiến lược thực tế
Bà Phạm Chi Lan: Đó là điều rất đáng tiếc về phía chúng ta. Việc làm sao chống được sự
xâm lấn của hàng bên ngoài thì yếu tố quan trọng hàng đầu vẫn là sức mạnh của
chính mình.
Bệnh thành tích
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Những điều mà bà Phạm Chi Lan nói về chiến
lược xuất khẩu ô tô, hoặc chúng ta sản xuất máy bay đã được thực tế chứng minh
về tính khả thi. Dự án ô tô Mê kông là một sự thất bại to lớn. Lịch sử đã chứng
minh người Việt rất cần cù, rất chịu khó, sáng tạo, khéo tay, quả cảm…, nhưng
đôi khi chúng ta cũng rất ảo tưởng.. Với chúng ta, tôi nghĩ rằng chúng ta đang
hão huyền sinh ra bệnh thành tích. Ngày xưa ông cha ta căn cơ, chính xác, gọn
ghẽ đâu ra đấy. Nhưng chủ nghĩa thành tích đã sinh ra sự hão huyền, chạy theo
thành tích sẽ thế này thế kia… chúng ta phải rời bỏ điều đó, phải trở lại hiện
thực và làm một bát phở thật ngon, hãy may một cái áo thật đẹp…
Đã đến lúc chúng ta
phải bỏ qua tất cả những hình thức phù phiếm, tất cả những khẩu hiệu sáo rỗng,
bánh vẽ giá trị ảo để trở về cuộc sống thực tế, giá trị thực để đáp ứng nhu
cầu.
Giải pháp khả thi
Nhà báo Nguyễn Quang Thiều: Thưa bà Phạm Chi Lan cơn lũ hàng nhập ngoại
xấu, kém chất lượng, độc hại đang tràn vào Việt Nam đã lên đỉnh điểm chưa, hay
sẽ tiếp tục, hoặc giảm xuống?
Bà
Phạm Chi Lan: Nó như thế nào phụ thuộc
vào thái độ của chính chúng ta. Nếu chúng ta bỏ lơ, coi thường chuyện đó, các
cơ quan Nhà nước vẫn cảm thấy dửng dưng không ý thức ngăn chặn, bảo vệ cho đồng
bào mình thì làm sao cơn lũ này chấm dứt được.
Hoặc truyền thông của
chúng ta không dấy lên được tiếng nói mạnh mẽ để cổ động cho hàng Việt Nam,
biểu dương cho những doanh nghiệp hàng tốt như May 10, và rất nhiều những doanh
nghiệp khác, trân trọng người tiêu dùng trong nước thì làm sao ngăn nổi cơn lũ
này.
Nếu không cùng nhau làm việc đó như một tính
chất cả hệ thống thì cơn lũ đó chưa tới đỉnh điểm đâu, sẽ tiếp tục đổ vào, tiếp
tục tràn vào dữ dội hơn. Người ta đã có hẳn một kế hoạch lớn, chiến lược lớn để
làm điều đó, họ sẽ không dừng lại trừ khi chúng ta biết tự vạch hướng đi cho
mình, tự bảo vệ cho mình, đẩy làn sóng đó ngược trở lại trả về phía bên họ.
Quả thực tôi lo lắng cơn
lũ này chưa đến đỉnh điểm, mà còn có thể tệ hại hơn nữa bởi vì chúng ta vẫn
chưa làm được gì nhiều để ngăn chặn.
Tôi nói vui với các doanh nghiệp là
bây giờ biên mậu đã diễn ra ở tận thành phố Hồ Chí Minh chứ không phải biên mậu
ở Lào Cai, Lạng Sơn nữa.
Thực tế, người ta đã vào tận thành phố Hồ
Chí Minh để làm rồi, gần như tất cả các giao dịch diễn ra ngay tại đó. Chỉ cần
nhấc một cú điện thoại lên thôi là hàng hóa đâu vào đó. Không khó để bắt gặp
từng đoàn xe mang biển số của một quốc gia láng giềng có thể vào đất Việt Nam
đàng hoàng, thậm chí người nước họ cũng ra vào làm việc ở đây tự do. Nếu chúng
ta vẫn dễ dãi như vậy thì cơn lũ hàng giá rẻ, chất lượng thấp còn tiếp tục dấn
tới.
Tôi vừa từ Lục Ngạn (Bắc
Giang) về. Tôi đã chứng kiến một đoàn 65 thương gia Trung Quốc đang ở đó, tại
những cứ điểm để thu mua vải quả, và họ là người quyết định giá cả.
Chúng ta đã để đến mức như vậy thì việc
không tự bảo vệ được mình là do chính mình, mình vừa là nạn nhân, vừa là tội
nhân của việc đó. Mình không biết tự mình bảo vệ mình thì nói được gì nữa. Nếu
ta không có hành động từ cao nhất, làm quyết liệt thì các doanh nghiệp phần nào
phải bó tay.
Những gì được đặt ra tại
bàn tròn hôm nay đã phần nào động chạm tới những điều cơ bản và chi tiết, chúng
ta cũng đã nói ra tất cả những điều mang tính hệ thống, chiến lược. Nếu biết
lắng nghe, biết sửa mình thì mọi chuyện sẽ tốt đẹp hơn, còn nếu vẫn chỉ là
trách nhiệm, là lợi ích cá nhân thì e rằng 50 năm nữa chúng ta lại ngồi lại
đây, nói lại những điều phiền muộn này. « (Tuần Việt Nam)
Được
báo động về việc Tuyên chiến này, Đại sứ quán Trung quốc tại Hà Nội, vẫn trịch
thượng là quan Thầy, nên đã cho Tùy viên Thương mại ra chỉ thị cho Truyền Thông
và Doanh nhân VN không được nói giọng tuyên chiến với hàng hóa Trung quốc. Chỉ
thị này giống như chỉ thị từ Bắc kinh ra lệnh cho CSVN phải đàn áp những người
yêu nước Biểu tình chống xâm lăng Hải đảo và Biển ngày nay.
2011: Xâm lăng Kinh tế TQ
thành nguy ngập cho Việt Nam
Tình trạng Kinh tế tụt dốc của Việt Nam có nghĩa là sức kháng
cự trở thành hoàn toàn yếu kém trước xâm lăng của Trung quốc. Những lý do sau
đây khiến cuộc Xâm Kinh tế lúc này của Trung quốc càng gia tăng trước sức chống
đối hoàn toàn yếu kém của Kinh tế Việt Nam:
=> Hoa kỳ và Liên Âu, hai
Thị trường lớn cho hàng xuất cảng từ Trung quốc, hiện nay đang gặp Khủng hoảng
về nợ công. Dân chúng thất nghiệp tăng mạnh. Nợ công và Thất nghiệp tăng có
nghĩa là hai Thị trường giảm Mãi lực tiêu thụ. Nhưng việc sản xuất của Trung
quốc vẫn phải giữ để bảo đảm Độ tăng trưởng. Mãi lực nội địa Trung quốc không
những không tăng mà còn phải chịu cảnh Lạm phát lên cao. Thêm vào đó các Thành
phố Trung quốc, vì tham vọng Đô Thị hóa, nên hiện nay mang nợ chất chồng. Mãi
lực dân nội địa yếu kém, các Thành phố lại mang nợ nần, nên việc tiêu thụ nội
địa chắc chắn phải giảm xuống. Khi bí lối tiêu thụ hàng hóa nội địa mà việc sản
xuất vẫn phải giữ để tránh đóng cửa xí nghiệp, thì hàng hóa thặng dư sẽ xì
xuống Việt Nam.
Tác giả ANH VŨ, ngày 15.07.2011, đã viết về nợ
nần của các Thành phố tại Trung quốc như sau:
“Cả thế giới trong lúc
này đâu cũng thấy người ta nói về chuyện nợ nần của các quốc gia. Châu Âu, châu
Mỹ đang hoảng loạn về công nợ lan truyền và cả châu Á với những cường quốc mới
nổi lên cũng không tránh được căn bệnh của sự phát triển, đó là chi tiêu quá
khả năng mình có.
Phụ trang Le Figaro
đăng các bài dịch từ tờ báo Mỹ New York Times hôm nay 15/7 có bài viết về chủ
đề này với tiêu đề « Trung Quốc cũng mắc nợ ».
Người ta vẫn nghĩ
Trung Quốc là nước có nguồn dự trữ ngoại tệ khổng lồ lên tới 3.000 tỷ đô la thì
không lo gì chuyện vay mượn hay vỡ nợ. Nhưng thực tế bùng nổ kinh tế đang diễn
ra ở Trung Quốc cho thấy nhiều dấu hiệu nước này cũng khó tránh khỏi vòng nợ
nần. “
Bài báo đưa độc giả
đến với Vũ Hán, thành phố lớn thứ chín của Trung Quốc. Cả thành phố này là một
công trường xây dựng đang chìm trong bụi mù. Theo tác giả bài báo thì tại Vũ
Hán, hiện có tới 5.700 công trình xây dựng đang được triển khai. Trong đó phải
kể đến các dự án đô thị hoá khổng lồ như đường tàu điện ngầm dài hàng trăm
kilômét, hai nhà ga sân bay, trung tâm thương mại, văn hoá và vô số những tòa
tháp cao ngất với tổng kinh phí lên tới 120 tỷ đô la. Nhưng theo tác giả bài
báo thì trường hợp Vũ Hán không phải là cá biệt. Từ nhiều năm nay hàng chục
thành phố khác ở Trung Quốc cũng đang lao vào cuộc chạy đua các dự án xây dựng
đầy tham vọng. Kết quả là ngày càng có nhiều dấu hiệu cho thấy các chính quyền
địa phương đang đang phải mắc nợ lớn để chi phí cho tham vọng của mình.”
=> Tình trạng thiếu vốn vì
muốn thắt chặt Tín dụng lưu hành để chống Lạm phát phi mã đang diệt doanh
nghiệp VN và thả lỏng cho xí nghiệp Trung quốc thắng thế. Phóng viên VŨ HOÀNG,
RFA, ngày 15.07.2011, đã cho thấy cuộc xâm lăng Kinh tế Trung quốc đang diễn ra
như sau:
Doanh nghiệp VN bất lợi trên sân nhà
Lãi suất tiền vay trong nước quá cao đã ảnh
hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam khi cạnh tranh với
các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Trung Quốc ngay tại
VN.
Thiếu vốn do lãi cao
Báo chí trong nước mấy hôm nay liên tục đưa tin
chuyện các doanh nghiệp Trung Quốc ồ ạt vào Việt Nam thu mua các mặt hàng nông
sản, thuỷ sản, cà phê, hồ tiêu, trái cây, thịt heo… khiến giá các mặt hàng này
tăng vọt, trong khi các ngành hàng trong nước lại thiếu hụt nguyên liệu trầm
trọng. Và nguyên nhân của hiện tượng này được cho là do hậu quả của việc lãi suất
cho vay trong nước quá cao, gây bất lợi cho chính các doanh nghiệp cần vay vốn.
Chuyện lãi suất quá cao mà hiện tại các doanh
nghiệp đang phải hứng chịu bắt nguồn từ hậu quả của chính sách tài khoá thắt
chặt, nhằm kiểm soát lượng vốn tín dụng bơm vào nền kinh tế.
Trong một lần trao đổi với đài Á Châu Tự Do
cách đây không lâu, T.S Lê Đăng Doanh đã từng nhận định:
"Hiện nay doanh
nghiệp rất thiếu vốn và vì thắt chặt tiền tệ thiếu vốn cho nên các ngân hàng đã
đẩy lãi suất tiền gởi tiết kiệm lên vượt trần của Ngân hàng Nhà nước là 14% mà
hiện nay đã lên tới 18%-19%. Vì vậy đã đẩy lãi suất cho vay lên đến 28%-29% là
một mức lãi suất quá sức chịu đựng của doanh nghiệp."
Thực ra vấn đề chi phí cho hoạt động kinh doanh
bị đẩy cao, do lãi suất tăng mạnh cũng đã được đề cập nhiều, nhưng điểm đặc
biệt ở thời điểm này là có thêm sự tranh mua nguyên nhiên liệu từ phía Trung
Quốc do họ có lợi thế hơn so với các doanh nghiệp Việt Nam về mặt vốn liếng và
khả năng tài chính, vì vậy khiến cho những doanh nghiệp Việt Nam hoạt động
trong lĩnh vực thu mua nguyên liệu gặp khó khăn hơn.
Theo lời bà Trần Thị Miêng, Cục phó Cục chế
biến Nông lâm thủy sản và nghề muối (thuộc Bộ Nông nghiệp và PT Nông thôn) được
báo VNmedia trích lại cho biết việc Trung Quốc ồ ạt thu gom nông sản của Việt
Nam đang là một vấn đề nổi cộm và gây nhiều nhức nhối cho các doanh nghiệp,
trong đó có ngành chế biến nông lâm thủy sản.
Mặc
dù mới điều chỉnh tăng lãi suất cơ bản, nhưng hiện tại lãi suất cho vay thời
hạn một năm tại Trung Quốc cũng chỉ dừng lại ở mức 6,65%. Trong khi đó, ở Việt
Nam, lãi suất cho vay từ các ngân hàng thuơng mại đã lên đến trên 20%. Rõ ràng
với chi phí cao như vậy, các doanh
nghiệp kinh doanh thu mua nông sản, thủy sản của Việt Nam sẽ gặp bất lợi hơn
rất nhiều so với các đối thủ khác từ phía Trung Quốc.
Về vấn đề này, ông Đỗ Hà Nam, Chủ tịch Hiệp hội
Hồ tiêu Việt Nam nhận xét:
"Với lãi suất
20-21%/năm thì kinh doanh mà nói, khó lòng có một hiệu quả nào mà giá trị hàng
hoá cao như vậy. Trung Quốc khi họ có tiền ứng ra trước thì đương nhiên họ hiệu
quả hơn rồi, mình thì phải cộng lãi suất, còn họ thì mang tiền đâu lấy hàng đó,
đương nhiên là họ lợi thế hơn rồi. Khách hàng Trung Quốc có lợi thế hơn. Về mặt
suy luận thì khách hàng Trung Quốc có lợi thế hơn. Xu hướng chung là các doanh nghiệp
Việt Nam thụt lùi và nhường chân cho họ rồi, họ có thể mua thẳng của người dân,
của những nhà cung ứng nhỏ, thì hiện nay họ đang có lợi thế ấy."
Theo lời ông Trần Văn Lĩnh, tổng giám đốc công
ty Cổ phần thuỷ sản Thuận Phước ở Đà Nẵng, được báo Sài gòn Tiếp thị trích đăng
cho rằng thương nhân Trung Quốc tới tận ao mua tôm, tới tận cảng cá chờ tàu cập
bến và hình như lúc nào họ cũng mua cao hơn một vài giá so với doanh nghiệp
Việt Nam. Vì thế các doanh nghiệp thuỷ sản miền Trung bị thiếu nguyên liệu trầm
trọng do cạnh tranh không lại với thương nhân Trung Quốc.
Không chỉ dừng lại cạnh tranh thu mua nguyên
liệu nhờ lợi thế về giá cả, các doanh nghiệp Trung Quốc còn tận thu cả nguyên
liệu kém chất lượng như tôm tạp chất, về lâu về dài sẽ khiến các doanh nghiệp
xuất khẩu thuỷ sản bị liên luỵ do nhiều sản phẩm thuỷ sản kém chất lượng như
vậy lại có nguồn gốc từ Việt Nam xuất ra khỏi biên giới.
Có lẽ việc doanh nghiệp Trung Quốc tranh mua
nguyên nhiên liệu của Việt Nam chỉ là điểm khởi đầu, điều quan trọng là nằm ở
chỗ trong tương lai, người nông dân Việt Nam sẽ hoàn toàn bị lệ thuộc vào các
thương nhân Trung Quốc, khi họ đã chiếm lĩnh thị trường đầu ra cho các sản phẩm
nguyên nhiên liệu.
Một lần nữa, ông Đỗ Hoài Nam lên tiếng cảnh
báo, đến lúc đó Việt Nam sẽ mất tính chủ động
trong việc điều phối nguồn hàng trong tương lai:
"Trước mắt, Trung
Quốc họ có vốn thì họ hỗ trợ cho người nông dân bán được hàng tốt hơn. Nhưng
bất lợi là về lâu về dài, chúng ta sẽ quản lý như thế nào, nếu không có người
mua thì các doanh nghiệp Việt Nam hỗ trợ về giá, nước ngoài họ ép giá, thì mình
làm gì có gì để đối trọng, bằng cách nào để hạn chế bán hay bắt buộc bán cho
họ. Nguyên tắc của người nước ngoài lợi nhuận là trên hết chứ không phải vì lợi
ích của cộng đồng."
Nhưng bất lợi là về lâu về dài, nước ngoài họ
ép giá, thì mình làm gì có gì để đối trọng. Nguyên tắc của người nước ngoài lợi
nhuận là trên hết chứ không phải vì lợi ích của cộng đồng.
=> Vì tình trạng tụt dốc
Kinh tế, cạn kiệt ngoại tệ (Đo-la), các Xí nghiệp VN như bó buộc phải nhập hàng
Trung quốc. Phóng viên NAM NGUYÊN, RFA, ngày 22.06.2011, đã nói lên khía cạnh
Nhập siêu và lệ thuộc Trung quốc như sau:
“Tình trạng nhập siêu
gây mất ổn định cho nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt nhập siêu từ Trung Quốc. Nam Nguyên ghi nhận ý kiến chuyên gia
về vấn đề này.
Sập bẫy nhập siêu từ Trung Quốc
TS Lê Đăng Doanh, chuyên gia kinh tế độc lập từ
Hà Nội phân tích:
- Vấn đề ở đây là cần
phân biệt phần nhập siêu thuần túy thương mại và nhập siêu có liên quan đến đầu
tư. Hiện nay do nhiều lý do, Trung Quốc đang tham dự vào việc đấu thầu và xây
dựng theo thể thức EPC (Engineering procurement and construction) là rất nhiều
và Trung Quốc đã nhập cả trang thiết bị, nguyên vật liệu thậm chí mang cả công
nhân có tính chất phổ thông sang để xây dựng. Phần này chiếm chủ yếu của các
vật tư, trang thiết bị mà Việt Nam nhập từ Trung Quốc và đây là vấn đề rất đáng
tranh cãi: tại sao lại phải nhập nhiều như thế từ Trung Quốc, gia
Giáo sư Tiến sĩ NGUYỄN PHÚC
LIÊN, Kinh tế
Geneva 19.07.2011. Cập nhật
13.02.2014
Web: http://VietTUDAN.net
---
Tấm hình này chụp trong lúc những người biểu tình kỷ
niệm cuộc chiếm biên giới với TQ.
Việtcộng cho các công chức ra nhảy đầm phá đám....17/2/2014
Nguyễn Thùy Trang Chiến tranh TQ / VN 1979 .
0 comments:
Post a Comment